Nằm trên trục đường quốc lộ 1B (nối giữa huyện Bình Gia và huyện Bắc Sơn), thuộc địa phận xã Long Đống, chiều dài gần 4km, độ cao trung bình 450 – 480m, bao quanh là các dãy núi đá vôi có độ cao trung bình 550 – 650m so với mặt nước biển và cây xanh bao phủ. Hiện nay, tại đỉnh đèo Tam Canh đã được lựa chọn làm địa điểm xây dựng biểu tượng Khởi nghĩa Bắc Sơn và 01 nhà bia ghi dấu sự kiện với tổng diện tích khuôn viên khoảng 120m2.
Hiện nay, các di vật, tài liệu hiện vật liên quan đến khu di tích đang được lưu giữ, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Bắc Sơn và Nhà trưng bày truyền thống trường Vũ Lăng, với tổng số 138 hiện vật, gồm: 127 hiện vật gốc, 11 hiện vật phục chế.
Di tích đèo Tam Canh
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, ý chí quật cường của quân, dân Bắc Sơn nói riêng và quân, dân Việt Nam nói chung. Ngày nay những sự kiện lịch sử và lễ hội, phong tục tập quán của đồng bào gắn với những địa điểm thuộc Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn chính là di sản văn hoá (vật thể, phi vật thể) quý báu cần được tiếp tục quan tâm, gìn giữ, khai thác và phát huy, tạo thêm nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội cho địa phương.
Ngày 01/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành một loạt các chính sách thời chiến rất phản động thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người đi lính, vơ vét và cướp bóc của cải để cung cấp cho chiến tranh, tiến hành đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo… đẩy nhân dân ta vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng trở nên gay gắt.
Ngày 22/9/1940, Nhật kéo quân từ Quảng Tây (Trung Quốc) vượt biên giới tấn công Pháp ở Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp rút chạy qua Điềm He, Bình Gia, Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này tan rã, các viên tri châu Điềm He, Tràng Định, Na Sầm chạy trốn. Đại lý Pháp đồn trưởng Bình Gia vứt súng bỏ chạy, trên đường rút chạy, tàn quân Pháp đã cướp bóc nhiều tài sản, gây căm phẫn trong nhân dân. Sự hoảng loạn của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã tạo thời cơ thuận lợi cho Đảng bộ và quần chúng cách mạng ở Bắc Sơn nổi dậy tiến hành cuộc khởi nghĩa.
Ngày 25/9/1940, một số đồng chí đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn về tới châu Bắc Sơn, trong đó có đồng chí Nông Văn Cún (tức Nông Thái Long), Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức. Tối ngày 26/9/1940, các đồng chí Nông Văn Cún, Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức đã họp cùng các đồng chí Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán tại thôn Nông Lục, xã Hưng Vũ để nhận định tình hình và thời cơ cách mạng, thảo luận phương án phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang.
Sáng 27/9/1940, Ban Cán sự Châu ủy Bắc Sơn đã triệu tập, tổ chức cuộc họp quan trọng tại đình Nông Lục, xã Hưng Vũ quyết định phát động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ngay trong ngày 27/9/1940. Giờ khởi nghĩa được chọn vào lúc chập tối từ 19 giờ 30 phút đến 20 giờ. Ban Chỉ huy cuộc khởi nghĩa được thành lập gồm các đồng chí: Hoàng Văn Hán, Dương Công Bình, Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức và Nông Văn Cún do đồng chí Hoàng Văn Hán làm Chỉ huy trưởng. Mục tiêu tấn công đầu tiên là đánh chiếm đồn Mỏ Nhài, châu lỵ Bắc Sơn.
Khoảng 20 giờ ngày 27/9/1940, dưới sự chỉ huy của các đồng chí đảng viên, nhân dân các xã Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên, Ngư Viễn với vũ khí gồm gươm, giáo, dao, gậy gộc, 20 súng trường, 8 súng kíp và 30 hòm đạn. đã đồng loạt nổ súng tấn công đồn Mỏ Nhài. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa ngoài quần chúng cách mạng còn có một số người nguyên là tổng đoàn, xã đoàn, lính dõng và lĩnh khố đỏ. Ban Chỉ huy khởi nghĩa chia đoàn quân khởi nghĩa làm 03 bộ phận, theo 3 hướng tấn công. Trước khí thế của quân khởi nghĩa, Tri châu Hoàng Văn Sỹ và binh lính đã bỏ chạy qua đèo Canh Giàn (xã Trấn Yên) sang châu Bằng Mạc.
Sau khi chiếm được đồn Mỏ Nhài, quân khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn châu lỵ Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được thắng lợi. Ban Chỉ huy cuộc khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân và tay sai.
Trước tình thế đó, Pháp, Nhật thỏa hiệp với nhau để tập trung đàn áp cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đưa quân lên chiếm lại đồn Mỏ Nhài, châu lỵ Bắc Sơn và đàn áp nhân dân dữ dội. Tuy nhiên, địch vẫn không dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân, phong trào cách mạng, tổ chức quần chúng và khí thế khởi nghĩa ở Bắc Sơn vẫn được duy trì.
Đầu tháng 10/1940, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy đã đến Bắc Sơn trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Ngày 14/10/1940, đồng chí Trần Đăng Ninh triệu tập một cuộc họp với các đảng viên ở Sa Khao, xã Vũ Lăng (nay là xã Tân Hương) để bàn về các biện pháp xây dựng phong trào cách mạng Bắc Sơn.
Thực hiện quyết định của Hội nghị ngày 14/10/1940, Ban Chỉ huy khởi nghĩa tổ chức cuộc mít tinh, diễn thuyết tại Đon Úy, xã Vũ Lăng với hơn 100 người là đảng viên và quần chúng cách mạng tham gia. Thay mặt Ban Chỉ huy, đồng chí Trần Đăng Ninh tuyên bố thành lập Đội du kích Bắc Sơn. Sau thời gian ngắn được củng cố, đến cuối tháng 10/1940, Đội du kích Bắc Sơn đã có 200 đội viên, tổ chức thành các tiểu đội du kích (mỗi tiểu đội 10 người), trang bị vũ khí toàn đội có 20 khẩu súng trường và 200 súng kíp. Đội du kích Bắc Sơn là đội du kích đầu tiên do Đảng ta thành lập và trực tiếp chỉ huy. Với sự hoạt động tích cực của đội du kích, chỉ sau thời gian ngắn, phong trào đấu tranh bảo vệ căn cứ, tiễu trừ Việt gian, phản động đã phát triển ra hầu hết các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên, Bắc Sơn, Nhất Hòa.
Trước khí thế đấu tranh sôi nổi của quần chúng, Ban chỉ huy Đội du kích quyết định tập trung lực lượng đánh chiếm đồn Mỏ Nhài. Trước khi tiến công, ngày 28/10/1940, Ban chỉ huy tổ chức một cuộc mít tinh lớn với sự tham gia của hơn 1000 quần chúng tại trường Vũ Lăng để vận động quần chúng và biểu dương lực lượng. Giữa lúc quần chúng cách mạng đang dự mít tinh, quân Pháp và tay sai đã huy động lực lượng tập kích bất ngờ, làm cho lực lượng của ta bị phân tán. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bị kẻ thù khủng bố và đàn áp khốc liệt.
Sau khi phân tích tình hình Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1940 tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã quyết định duy trì Đội du kích Bắc Sơn, làm cơ sở xây dựng lực lượng cách mạng, thành lập căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.
Đến đây, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã hoàn thành những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra để chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới: Giai đoạn xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, chuẩn bị những điều kiện tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng về tay Nhân dân.
Cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn tuy chưa giành được thắng lợi triệt để nhưng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là tiếng súng mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương; khẳng dịnh tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của đồng bào Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn trong cuộc đấu tranh chính nghĩa chống kẻ thù xâm lược; đánh dấu bước trưởng thành lớn mạnh của phong trào cách mạng ở Lạng Sơn sau những năm đấu tranh kiên cường, gian khổ. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã có tác dụng trực tiếp, tích cực cổ vũ tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng của Nhân dân trong tỉnh, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai được thành lập đã thực sự trở thành nòng cốt cho việc củng cố và phát triển phong trào cách mạng của các địa phương trong tỉnh. Từ cuối năm 1940 đến đầu năm 1941, hoạt động của Đội Du kích Bắc Sơn đã góp phần tuyên truyền, giác ngộ và bước đầu xây dựng được nhiều cơ sở quần chúng cách mạng ở các huyện lân cận như Bình Gia, Bằng Mạc, Hữu Lũng, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc mở rộng địa bàn của phong trào cách mạng trong tỉnh. Tinh thần đấu tranh của Khởi nghĩa Bắc Sơn đã góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước. Các địa phương đều ủng hộ phong trào Bắc Sơn, học tập Bắc Sơn, noi gương Bắc Sơn xây dựng lực lượng vũ trang, đợi thời cơ khởi nghĩa. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta sử dụng các hình thức bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng kết hợp với tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng, đánh đổ thực dân và phong kiến, giành độc lập, tự do. Tiếng súng Khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của Nhân dân cả nước. Khởi nghĩa Bắc Sơn mãi mãi được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một tấm gương về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân Việt Nam.
Nguồn: http://tuyengiaolangson.vn